Ngày
17/3, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố giảm trần lãi suất huy động VND kỳ hạn
dưới 6 tháng từ 7%/ năm xuống còn 6%/năm và trần lãi suất USD là 1%/năm. Theo
thống đốc Nguyễn Văn Bình, việc hạ trần lãi suất huy động ngoại tệ sẽ giảm dần
tình trạng tích lũy ngoại tệ, khuyến khích giao dịch tiền gởi bằng VND. Và động
thái giảm trần lãi suất huy động VND sẽ tạo điều kiện chi các thành phần kinh tế
có điều kiện tiếp cận tốt hơn với các nguồn vốn tín dụng. Mặt tích cực ngay lập
tức tác động lên thị trường chứng khoán và mặt bằng lãi suất cho vay của các
ngân hàng thương mại được điều chỉnh từ 0.5% - 1.5%/năm.
Tuy
nhiên về mặt lý luận, trên rất nhiều diễn đàn kinh tế tài chính vẫn đang tranh
luận gay gắt về việc bỏ hay duy trì trần lãi suất tiền gửi. Mỗi trường phái đều
đưa ra những quan điểm của riêng mình. Có quan điểm cho rằng hiện giờ chưa phải
là thời điểm chín muồi để bỏ trần lãi suất , do kinh tế vĩ mô chưa ổn định vững
chắc, tiềm ẩn lạm phát, đặc biệt việc tái cơ cấu chưa được giải quyết dứt điểm,
các ngân hàng yếu kém dễ làm tái diễn lại tình trạng cạnh tranh vô lối, giành
giật khách hàng gửi tiền, làm méo mó thị trường tiền tệ. Quan điểm còn lại, cho
rằng việc áp đặt trần lãi suất là một động thái vừa sai lầm về lập luận, vừa
không có hiệu quả, thậm chí có tác hại làm bóp méo sự vận hành của thị trường
tiền tệ bởi những nguyên lý thị trường đã bị dẹp bỏ trong sự tồn tại của trần
lãi suất. Chính vì vậy, bài viết sẽ đưa ra quan điểm riêng về trần lãi suất huy
động, dưới lăng kính là một công cụ chính sách tiền tệ của NHNN.
Thứ
nhất, với một cơ chế thị trường chưa hoàn hảo, tình hình kinh tế vĩ mô chứa đựng
nhiều bất ổn và thị trường tài chính có nhiều biến động thất thường thì sự can
thiệp hành chính là một điều tất yếu. Sự can thiệp đó nhiều hay ít còn phụ thuộc
vào tình trạng ổn định của kinh tế vĩ mô. Do đó, trần lãi suất là một trong những
công cụ tất yếu phải sử dụng đến. Và sau 4 năm sử dụng, công cụ trần lãi suất
(2010) đã đạt được mục tiêu dần ổn định thị trường tiền tệ. Mặc dù trong 2 năm
đầu, các ngân hàng chật vật, ngột ngạt, căng thẳng với chiếc vòng kim cô mang
tên trần lãi suất và hiện tượng lách trần, cạnh tranh không lành mạnh, lừa đảo…xuất
hiện ngày một nhiều, nhưng mọi thứ có thể ví như thuốc đắng làm cơ thể có những
biểu hiện khó chịu ban đầu và rồi sẽ dần hồi phục (kinh tế vĩ mô Việt Nam có
nhiều triển vọng ổn định từ 2012 đến nay). Tuy nhiên, mức độ hồi phục chỉ mới
trong ngắn hạn nên cơ chế trần lãi suất vẫn còn phải gánh vác trọng trách.
Thứ
hai, thị trường tài chính Việt Nam được ví như hai quả bóng, một quả quá to chứa
đựng nhiều bất ổn là thị trường tiền tệ và một quả quá nhỏ là thị trường vốn.
Trong đó thị trường vốn lại lại chưa đáp ứng kịp nhu cầu vốn trung dài hạn của
nền kinh tế, nên mọi gánh nặng về vốn đổ dồn về thị trường tiền tệ, mà đặc biệt
là thị trường tín dụng ngân hàng khiến các ngân hàng đã phải sử dụng vốn huy động
ngắn hạn từ dân cư để tài trợ kịp thời cho các dự án đầu tư trung và dài hạn.
Vì vậy, có trần lãi suất huy động và hoạt động điều chỉnh giảm đã tác động trực
tiếp khi nắm dòng vốn từ thị trường tiền tệ sang thị trường vốn (các chủ thể
kinh tế gửi tiết kiệm sẽ có xu hướng chuyển sang các kênh đầu tư sinh lời hơn như
thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản…), giúp lập sự cân bằng vốn hóa
giữa hai thị trường này. Ngoài ra, trần lãi suất tiền gửi được thiết lập cũng
đã giúp dòng vốn trong thị trường tiền tệ đi đúng hướng vào khu vực sản xuất,
nông nghiệp và xuất khẩu. Bằng chứng là kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng vượt bậc
năm 2012, 2013 và góp phần cải thiện cán cân thanh toán của nền kinh tế.
Thứ
ba, dưới quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi NHNN phải sử dụng công cụ trần lãi suất
huy động để thực thi chính sách tiền tệ. Kinh tế vĩ mô Việt Nam luôn có những đặc
điểm riêng và các giải pháp giải quyết vấn đề phải có tính đặc thù phù hợp với
những đặc điểm riêng đó. Ví dụ điển hình là các biện pháp bình ổn thị trường
vàng trong Nghị định 24/2012/NĐ - CP mang sự đặc thù nhưng vô cùng hiệu quả, hoặc
cơ chế xử lý nợ xấu thông qua công ty VAMC đã mang lại những bước đầu khả quan.
Theo đó, hiện trạng thị trường tài chính Việt Nam ngổn ngang những bất cập và
kinh tế vĩ mô chứa đựng nhiều bất ổn, và dường như chính sách tiền tệ đang cán
đáng cho sự ổn định của cả hệ thống tài chính. Chính vì vậy, chính sách tiền tệ
với các công cụ hoạt động phải tác động trực tiếp và ngay tức thời nhằm tối ưu
hóa các mục tiêu điều tiết trong ngắn hạn (cụ thể là lạm phát, GDP, đầu tư…). Nên
công cụ khung lãi suất, mà ở đây là trần lãi suất được ưu tiên sử dụng. Đồng thời,
trong ngắn hạn các mục tiêu điều tiết chỉ mới dần ổn định, nhưng dài hạn vẫn tiềm
ẩn những bất ổn, nên việc duy trì trần lãi suất là điều hợp lý.
Thứ
tư, việc bỏ trần lãi suất trong thời điểm hiện tại sẽ tạo một sức ép lớn về
hoàn thiện và sử dụng thành thạo, cũng như hiệu quả của những công cụ khác
trong chính sách tiền tệ như dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất
tái chiết khấu…Đây là các công cụ tác động gián tiếp lên cung tiền để tạo tính
lan tỏa và đạt được các mục tiêu điều tiết, nhưng tất cả đều có những độ trễ nhất
định. Do đó, việc bỏ trần lãi suất trong thời điểm này khi mà độ tác động của
các công cụ khác đang trong quá trình “tập tễnh” là một thách thức khá lớn. Tuy
nhiên, về lâu dài, NHNN cần tiến đến nguyên tắc thị trường và hoàn thiện các
công cụ tiền tệ gián tiếp nhưng đầy hiệu quả trong các quyết sách của mình.
Thứ
năm, trần lãi suất huy động kỳ hạn dưới 6 tháng tiếp tục duy trì và quy định mức
lãi suất hợp lý để định hướng kỳ vọng lạm phát và đảm bảo tính linh hoạt áp dụng
(lãi suất tại Việt Nam đang gánh vác nhiều trọng trách như kỳ vọng lạm phát,
tăng trưởng GDP, hỗ trợ doanh nghiệp..). Cụ thể là đối với những NHTM có uy tín
cao, thanh khoản tốt, nguồn vốn dồi dào, có thể tự ấn định mức lãi suất thấp xa
với mức trần; trong khi những NHTM khác, uy tín thấp hơn có thể ấn định một mức
lãi suất cao hơn nhưng trong khuôn khổ trần cho phép. Việc duy trì trần lãi suất
tiền gửi cộng với sự nghiêm ngặt kiểm tra tính tuân thủ quy định, một mặt sẽ
giúp hình thành một đường cong lãi suất ổn định, cơ cấu kỳ hạn với mức lãi suất
được rõ ràng hơn. Từ đó khuyến khích các tổ chức tín dụng huy động được nguồn vồn
dài hạn và cơ cấu lại tốt hơn nguồn vốn của mình. Mặt khác, trần lãi suất tiền
gửi dưới 6 tháng cũng hỗ trợ tái lập sự ổn định trên thị trường tiền tệ, hạn chế
cạnh tranh không lành mạnh và dịch chuyển vốn giữa các NHTM trong điều kiện hệ
thống TCTD đang trong quá trình tái cơ cấu.
Ngoài
ra, trần lãi suất thiết lập cho kỳ hạn dưới 6 tháng và cơ chế thỏa thuận trên 6
tháng sẽ giúp các NHTM nâng cao ý thức cạnh tranh phi giá trong dịch vụ tiền gửi.
Theo một khảo sát khách hàng về sự lựa chọn sản phẩm tiền gửi, tiêu chí dịch vụ
tốt chiếm 28.67%, mạng lưới chi nhánh 23.44%, thái độ nhân viên 15.85%, lãi suất
và khuyến mãi chỉ chiếm 13.66%, tiện
nghi và sự thoải mái nơi giao dịch 12.65%, giờ hoạt động 5.73%. Do đó, lãi suất
không phải là yếu tố then chốt để cạnh tranh tiền gửi. Và trần lãi suất cộng cơ
chế chế tài sẽ hướng các NHTM không còn cách nào khác là thay đổi tư duy cạnh
tranh bằng lãi suất sang gia tăng dịch vụ, thái độ nhân viên và mở rộng mạng lưới
chi nhánh – PGD. Từ đấy, dịch vụ tài chính ngân hàng sẽ tiệm cận hơn với thế giới
và gia tăng độ cạnh tranh so với các ngân hàng nước ngoài.
Khi nào sẽ dỡ bỏ trần lãi suất huy
động?
Mọi
chính sách tiền tệ trên thế giới đều hướng đến ổn định giá cả và tạo một nền tảng
tài chính vững chắc. Và từ sau Nghị quyết 11/NQ – CP kèm việc triển khai hàng
loạt các chính sách tiền tệ với trợ lực của trần lãi suất tiền gửi đã giúp kinh
tế vĩ mô Việt Nam dần đi vào quỹ đạo ổn định (dấu hiệu chỉ mới tích cực trong
ngắn hạn). Điều này có thể nhận thấy thông qua chỉ số CPI , GDP và sự tái lập
trật tự ở thị trường tài chính. Do đó, vai trò của trần lãi suất không thể phủ
nhận về tính hiệu quả trong các công cụ chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, sự hiệu
quả này chỉ tồn tại trong ngắn hạn, về dài hạn thì các công cụ chính sách tiền
tệ gián tiếp phản ánh nguyên tắc thị trường và giúp thị trường tài chính trở
nên “cởi mở” hơn. Và câu hỏi đặt ra, khi nào NHNN sẽ dỡ bỏ trần lãi suất huy động?
Trong
một phát biểu của thống đốc Nguyễn Văn Bình, đã cho biết cực chẳng đã mới sử dụng
biện pháp hành chính can thiệp trong chính sách tiền tệ và chỉ duy trì trong ngắn
hạn. Hòa với chủ trường này, trần lãi suất đã được dần dỡ bỏ, đầu tiên là trần
được áp dụng cho tất cả kỳ hạn trên 1 tháng, tiếp đến là cơ chế tự thỏa thuận
lãi suất trên 12 tháng, nay là cơ chế thỏa thuận lãi suất trên 6 tháng, và cuối
cùng sẽ là tự thỏa thuận hoàn toàn khi tối ưu được các mục tiêu điều tiết trong
chính sách tiền tệ.
No comments:
Post a Comment