Khổng tử là nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại có vai trò to lớn trong lịch sử giáo dục của thế giới. Ông đã để lại cho nhân loại những lời dạy bảo quý báu và những tư tưởng triết lý sâu sắc. Mà ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể với nhân tố con người làm trung tâm thì người ta lại càng phát hiện ở đó chứa đựng những yếu tố tích cực, tiến bộ luôn còn giá trị trong sự nghiệp giáo dục.
Trải qua hơn 4000 năm, nhưng sức lan tỏa và chọn lọc những tư tưởng triết học Nho giáo đang được kế thừa một cách hiệu quả. Ngày nay, không còn cái gọi là “môn đồ” của Nho giáo, bởi ở Việt Nam – Nho giáo không tồn tại như một tôn giáo hiện hữu mà nó chỉ tồn tại trong ý niệm của những người trí thức. Ý niệm đó được đúc kết và chọn lọc từ những tư tưởng bất hủ của Nho giáo và thông qua quá trình giáo dục đã dần dần trở thành quan niệm.
Để hiểu rõ về tư tưởng giáo dục của Nho giáo ảnh hưởng đến xã hội hiện nay như thế nào? Cũng như giật mình khi thấy, trong ý niệm ban đầu của một người trí thức, dường như luôn tồn tại những tư tưởng triết học Nho giáo đầy uyên thâm? Dưới đây là cuộc đối thoại giữa môn đồ Nho giáo và tác giả về giáo dục.
- Tác giả : Triết lý giáo dục là cái nền tảng để tạo dựng một hệ thống giáo dục, đồng thời là tôn chỉ để thực hiện giáo dục. Trong xã hội hiện đại để đáp ứng các nhu cầu phát triển, hệ thống giáo dục sẽ đào tạo những con người như thế nào? Những người tư duy đột phá, bản lĩnh, độc lập với những kiến thức chuyên môn rõ ràng, cụ thể và uyên thâm hay lớp người lệ thuộc, rập khuôn, dễ sai khiến và thực dụng với những kiến thức chuyên môn rõ ràng, cụ thể nhưng mang tính sao chép. Vậy, trước khi nói đến giáo dục, cần phải nói đến triết lý giáo dục – một kim chỉ nam xuyên suốt quá trình sự nghiệp giáo dục?
- Môn đồ Nho giáo : Nho giáo có câu : “tiên học lễ, hậu học văn” và “nhân chi sơ tính bản thiện”. Vậy, con người sinh ra chưa nhận thức những gì đã thấy, những gì đã nghe, những gì đã rờ…nên giáo dục là điều quan trọng. Có giáo dục thì con người mới điều chỉnh mọi hành động sao cho tinh tường hợp lẽ Trời Đất, con người không học mãi mãi là người vô minh, mãi mãi là “tiểu nhân”. Đức Khổng tử rất rõ ràng trong triết lý Nho giáo, lễ là gốc của con người, dùng lễ để hàm dưỡng tính tình con người; dùng lễ để thích hợp với đạo Trung Dung; dùng lễ để định lẽ trái phải, tình thân sơ và trật tư trên dưới phân minh; dùng lễ để tiết chế lòng tư dục. Vậy, lễ là cái có trước, có lễ rồi mới học văn – đó chẳng phải là “tiên học lễ, hậu học văn” là gì.
- Tác giả : Nho giáo tôn chỉ lễ là gốc của con người. Nên giáo dục từ lễ mà ra, sau đó mới đến văn võ. Có thể hiểu, triết lý giáo dục của nho giáo là lễ, con người có lễ sẽ phá bỏ lối vô minh để đi đến cái chí minh. Lễ điều chỉnh mọi hành động của con người, hướng con người đến cái Chân – Thiện – Mỹ, nhưng song hành với lễ luôn tồn tại cái Văn, cái Võ – chớ nên chối bỏ điều này.
- Tác giả : Con người bắt đầu học từ đâu? Giả định, con người đã hiểu rõ lễ nghĩa, bởi trong xã hội Việt Nam, lễ nghĩ luôn được trân trọng gìn giữ. Nó được coi như một truyền thống quý báu mà biết bao thế hệ giữ gìn như :”bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, “công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chẳng ra”, “tôn sư trọng đạo”…Con người thời đại này chỉ biết sự học thật sự bắt đầu từ năm lớp 1 cho đến khi đỗ thành Tiến Sỹ, nhưng có ai biết rằng đó chỉ là tiến trình học tập. Chính trong tâm khảm của người học, họ dường như đang lạc lối, họ không biết học bắt đầu từ đâu, học để làm gì?
- Môn đồ Nho giáo : Cái quan trọng trong sự học là định hướng được cho người học. Học là một tiến trình không ngừng, chẳng phải Lê Nin cũng nói :”học, học nữa, học mãi” đó sao!. Cái học khác với cái vô học là định hướng con người đi đến cái chí minh (như tác giả đã đề cập ở trên), từ cái chí minh sẽ giúp con người hiểu rõ học để làm gì? Còn cái sự học phải bắt đầu từ Tu thân. Đức Khổng tử nói về Tu thân thông qua tám điều mục như sau và thực hiện theo thứ tự :
- Cách vật : cách ly sự vật để quan sát rõ ràng.
- Tri trí : nghiên cứu đến tận gốc rễ vấn đề.
- Thành ý : rèn luyện ý chí thành thật, dũng mãnh.
- Chánh tâm : thanh lọc tâm hồn thoát khỏi sự ô nhiễm của vật dục.
- Tu thân : sửa đổi những điều sai lầm của mình.
- Tề gia : sắp đặt việt gia đình cho đúng phép.
- Trị quốc : lấy nhân nghĩa, lấy chơn chánh để “trị dân”.
- Bình thiên hạ : đem lại thanh bình, hạnh phúc cho toàn dân.
- Tác giả: Thưa, tám điều mục thật ý nghĩa. Nhưng xét thấy cần phải chỉnh sửa vài ý để phù hợp hơn cho thời đại mới này, nhất là trị quốc, bình thiên hạ. Bởi dễ dẫn đến tư tưởng lệch lạc, trị quốc và bình thiên hạ ngày nay có thể hiểu đơn giản hơn là cống hiến tài trí và sức lực cho xã hội, cộng đồng và đất nước. Đối với xã hội hiện đại, sự học để đi đến cái chí minh là đúng, nhưng bên cạnh đó cũng là nhu cầu cấp thiết của mọi đất nước. “Phi trí bất hưng”, học để cuộc sống tốt đẹp hơn; học để cống hiến xây dựng gia đình, đất nước; học để cải tạo xã hội loài người…
- Tác giả : Hiện nay, một số đất nước hoàn toàn không có tài nguyên nhưng vẫn trở nên giàu có và một số khác, tài nguyên chỉ ở mức vừa vừa, cũng đã tiến xa trên cơn đường thịnh vượng. Tại sao như vậy? Và bí ẩn ở câu trả lời là chiến lược phát triển dựa trên tập trung cho giáo dục và chất xám cao cấp. Thay đổi số phận từ giáo dục?
- Môn đồ Nho giáo : Sau khi giành lại được ngôi báu từ tay anh em trong nhà, vua Tề Hoàn Công chỉnh đốn triều thần và có vài điều trăn trở nên mới vời Quản Trọng – tướng quốc nước Tề thời Chiến Quốc. Vua Tề hỏi Quản Trọng, làm thế nào để trị quốc? Quản Trọng đáp, trị quốc cốt ở yên dân, dân ấm no quốc hưng thịnh, muốn dân ấm no thì phải chăm lo phát triển kinh tế, bên cạnh đó nâng cao dân trí bằng lễ nghĩ và văn võ. Khi kinh tế vững rồi xong dựng quân đội, trong quân đội cốt tử là kỷ luật nghiêm minh. Nhưng trước hết thì phải “nhất nhân định quốc”, chiêu đãi hiền tài là chuỗi đầu tiên của mắt xích đó. Vậy thời xưa, xu hướng chiêu hiền đãi sĩ giúp quốc gia hưng thịnh không ít, nên ngày nay điều đó chẳng gì là lạ!
- Tác giả : chủ tịch Hồ Chí Minh có câu : “người có tài mà không có đức là người vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Nên chăng, tài đức song hành, quay lại cái chú trọng chữ Lễ trong giáo dục của Nho giáo đứng trước cái trí. Liệu có quá hạ thấp cái trí khi mà không có trí thì làm việc gì cũng khó?
- Môn đồ Nho giáo : Về phương diện giáo dục cốt lấy cái Thiện đoan và tài chế cái Ác đoan. Người nào thực hiện năm điều : Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Dũng, thì đó là người quân tử có cái phẩm giá rất tôn quý. Việc giáo dục của Nho giáo lấy Đức dục làm gốc và lấy Trí dục làm ngọn. Cái gốc có bền thì cái ngọn mới tươi tốt. Có Đức dục thì nghĩa lý thấm thía vào lòng người ta, làm cho người ta bỏ cái bụng gian tà. Thêm vào đó, phải tiếp thu cái Trí dục vào chỗ khiếm khuyết để từ đó Tâm Trí hài hòa. Đó là cốt cách đỉnh cao của người quân tử. Vậy, người có Đức là tốt nhưng khó là nguyên khí, vận tài của quốc gia. Nên hết phải Tâm Trí điều hòa để tiến hóa.
- Tác giả : Việt Nam trong thời đại mới đối mặt rất nhiều thách thức. Trong đó, nổi cộm hơn cả là sự bất cập trong sự nghiệp giáo dục, đến nổi chủ đề này được báo chí mổ xẻ dưới nhiều góc nhìn để hiểu rõ thực trạng, tình hình cũng như đề ra những giải pháp nâng cao chất lượng và hiểu quả đào tạo giáo dục. Tuy nhiên, hầu hết đều lúng túng khi bắt tay thực hiện đề án và phương pháp triển khai cụ thể.
- Môn đồ Nho giáo : Sự nghiệp giáo dục nên nhìn dưới ba phương diện : mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục. Nho giáo rất rõ ràng trong triết lý về giáo dục con người, đồng thời nội dung và phương pháp rất cụ thể. Nho giáo hướng con người đến đạt đạo, đạt đức, biết hiểu kinh – thư – lễ - nhạc, thông qua Tứ thư (Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Xuân Thu, Kinh Thi, Kinh Lễ Nhạc), Ngũ kinh (Luận Ngữ, Đại Học, Trung Dung, Mạnh Tử). Mục đích cuối cùng của Nho giáo là tạc ra những con người hiểu rõ Lễ Nhạc, cư xử phù hợp lẽ Đất Trời và lòng Người, hết lòng vì dân – vì nước – vì vua…
- Tác giả : Vậy, chấn hưng giáo dục là hoàn thiện triết lý giáo dục và cải tạo hệ thống đào tạo với những nội dung và phương pháp tiên tiến lẫn phù hợp với bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Trong tư duy đột phá của người Nhật, luôn tồn tại 7 nguyên tắc tư duy, nguyên tắc đầu tiên cũng là quan trọng nhất, mọi vấn đề luôn khác nhau độc đáo. Nguyên tắc này chỉ ra rằng, quá trình học hỏi những nền giáo dục thành công của quốc tế là điều nên làm nhưng phải nhớ khi ứng dụng rập khuôn, cứng nhắc thì sẽ không thể thành công bởi mọi vấn đề luôn khác nhau. Chúng ta nên đi tìm kiếm mô hình giáo dục hiện đại phù hợp nhất với xã hội, con người Việt Nam, mọi mô hình đều chỉ là nguồn để tham khảo. Và bài học dựng nước, giữ nước từ ngàn xưa đều cho thấy : “nhất nhân định quốc, phi trí bất hưng”.
No comments:
Post a Comment