Đến
hẹn lại lên, có thể cuối tháng này hoặc sang tháng sau, các ngân hàng và doanh
nghiệp niêm yết sẽ tiếp tục công bố báo cáo tài chính Quý III/2014 trên các
phương tiện thông tin đại chúng. Trong đó, nổi bật và được nhiều sự quan tâm
hơn cả là tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại.
Lúc
này, chắc chắn, một trong những chỉ tiêu của báo cáo tài chính được bàn luận và
đề cập liên tục bên cạnh nợ xấu, tăng trưởng tín dụng là kết quả lợi nhuận mỗi
ngân hàng. Nhưng dư luận sẽ mổ xẻ ở khía cạnh nào? Như các năm trước “ngân hàng
lợi nhuận khủng”, “hé lộ lợi nhuận siêu khủng của hàng loạt ngân hàng”, “điểm mặt
từng ngân hàng lợi nhuận cao”… hay thay vào đó là sự ảm đảm “lợi nhuận ngân
hàng cụt vì nợ xấu”, “bóng đen nợ xấu ám ảnh lợi nhuận ngân hàng”, “dự phòng lớn
ăn mòn lợi nhuận”…Thông qua các dữ liệu quá khứ và triển vọng kinh tế vĩ mô hiện
tại, có thể khẳng định, bức tranh lợi nhuận ngân hàng quý III/2014 khó có thể
xóa tan sự u ám của nợ xấu và sự tăng trưởng tín dụng ì ạch. Nhưng bằng nhiều
cách xử lý số liệu tài chính, chu kỳ tăng trưởng tín dụng nhanh vào các tháng
cuối năm và tiến trình kéo dãn trích lập dự phòng khi “bán” nợ xấu cho VAMC,
các ngân hàng vẫn có thể hoàn thành chỉ tiêu lợi nhuận như kế hoạch đề ra.
Theo
báo cáo tài chính quý II/2014, phần lớn các ngân hàng đều đạt được 50% chỉ tiêu
lợi nhuận đề ra cho cả năm kế hoạch. Và số lợi nhuận lũy kế của 6 tháng, có
ngân hàng ít là hơn 800 – 900 tỷ đồng, nhiều thì vài ngàn tỷ đồng. Đây thật sự
là những con số mơ ước của không ít doanh nghiệp khác và chưa có ngân hàng nào
lỗ tính đến thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, đằng sau những con số lợi nhuận từ
quá khứ có ba vấn đề được đặt ra :
-
Thứ nhất, nhiều ngân hàng đều có lợi nhuận
không hề nhỏ và được tích lũy theo năm (một phần phân phối cho cổ đông), nhưng
việc xử lý nợ xấu lại trở thành gánh nặng chủ yếu của cơ quan quản lý.
-
Thứ hai, cơ cấu thu nhập của ngân hàng
thiếu vững bền, chỉ hướng đến tăng trưởng lợi nhuận mà bỏ qua chất lượng lợi
nhuận. Trong cơ cấu này phục thuộc phần lớn vào thu nhập lãi thuần từ tín dụng.
-
Thứ ba, lợi nhuận ngân hàng đến thời điểm
hiện tại phụ thuộc nhiều vào tiến trình xử lý nợ xấu (trích lập dự phòng, phát
mãi tài sản và VAMC) và tăng trưởng tín dụng.
Cơ
cấu thu nhập của ngân hàng bấp bênh
Hoàn
thành chỉ tiêu lợi nhuận hằng năm là mệnh lệnh bắt buộc từ cổ đông nên nhiều
ngân hàng không xem đây là chỉ tiêu định hướng mà là chỉ tiêu then chốt. Bởi kết
quả lợi nhuận không chỉ ảnh hưởng đến uy tín thương hiệu ngân hàng, giá trị cổ
phiếu, lợi nhuận phân phối cho cổ đông mà còn thể hiện toàn cảnh tăng trưởng
kinh tế. Một thời gian khá dài, tăng trưởng kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào số
lượng nguồn vốn cung ứng và các ngân hàng theo đó cũng tăng trưởng tín dụng
nhanh để hòa nhịp. Kết quả, hầu hết ngân hàng Việt Nam đều có cơ cấu thu nhập
phụ thuộc nhiều từ lãi tín dụng. Nguồn thu này trở nên bấp bênh khi tăng trưởng
tín dụng ì ạch, nợ xấu ngày càng gia tăng và tình hình kinh tế vĩ mô chuyển biến
xấu.
Sự
phụ thuộc thu nhập từ tín dụng đã được một vài ngân hàng ý thức giảm nhưng vẫn
chiếm tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu thu nhập như Vietcombank có tỷ lệ thu nhập
lãi thuần chiếm hơn 67%, BIDV hơn 77%, ACB 78%, MBBank hơn 85%, Vietinbank gần
90%...Đặc biệt, ở các ngân hàng nhỏ tỷ lệ này chiếm hơn 95%. Theo những nghiên
cứu gần đây, một ngân hàng bán lẻ muốn hướng đến phát triển bền vững thì trong
cơ cấu thu nhập có thu nhập từ tín dụng nên chiếm dưới 60% và tỷ trọng gia tăng
nhiều hơn ở thu từ dịch vụ.
VCB
|
BIDV
|
ACB
|
Eximbank
|
MB Bank
|
Vietinbank
|
SHB
|
Techcombank
|
|||||||||
QII/14
|
2013
|
QII/14
|
2013
|
QII/14
|
2013
|
QII/14
|
2013
|
QII/14
|
2013
|
QII/14
|
2013
|
QII/14
|
2013
|
QII/14
|
2013
|
|
Tỷ lệ thu nhập lãi
thuần từ tín dụng
|
67%
|
69%
|
77%
|
74%
|
78%
|
78%
|
86%
|
85%
|
85%
|
80%
|
89%
|
84%
|
79%
|
91%
|
87%
|
80%
|
Tỷ lệ lãi thuần từ
dịch vụ
|
9,93%
|
10,03%
|
12,89%
|
11,78%
|
10,27%
|
13,64%
|
8,46%
|
8,31%
|
9,51%
|
9,64%
|
7,26%
|
6,98%
|
13,78%
|
5,13%
|
17,53%
|
11,13%
|
Tỷ lệ chi phí dự phòng
rủi ro tín dụng/Tổng chi phí
|
44,29%
|
36,53%
|
38,98%
|
47,87%
|
24,29%
|
18,52%
|
17,66%
|
12,46%
|
39,17%
|
40,79%
|
28,87%
|
29,38%
|
24,92%
|
*
|
26,24%
|
29,00%
|
(ghi
chú: (*) năm 2013, SHB hoàn nhập dự phòng 492 tỷ đồng)
Lợi
nhuận ngân hàng “ngóng” tăng trưởng tín dụng
Tăng
trưởng tín dụng và lợi nhuận ngân hàng có mối tương quan khá lớn tại Việt Nam.
Nên nhìn vào tỷ lệ tăng trưởng tín dụng có thể phác thảo được kết quả lợi nhuận
của hệ thống ngân hàng thương mại. Đến ngày 30/9/2014, tín dụng toàn hệ thống
các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế tăng 7,26% so với cuối năm 2013 và cơ
cấu tín dụng tiếp tục chuyển dịch theo hướng tập trung vào các ngành ưu tiên
theo chủ trương của Chính phủ. Điều này cũng phù hợp với quy luật tăng trưởng
tín dụng sẽ nhanh vào những tháng cuối năm. Được mùa tăng trưởng tín dụng, các
ngân hàng có thể tiếp tục đẩy mạnh vốn vào nền kinh tế và tạo ra lợi nhuận theo
đúng kế hoạch đề ra.
Tuy
nhiên, thời kỳ phụ thuộc tăng trưởng phụ thuộc tín dụng đã cho nhiều ngân hàng
những bài học khá “đắng”, nên chăng, tập trung và củng cố chất lượng tín dụng,
hạn chế nợ xấu phát sinh và cân nhắc giảm chỉ tiêu lợi nhuận đã đề ra, là điều
cấp thiết hơn.
Lợi
nhuận ngân hàng sẽ tiếp tục “bào mòn” bởi dự phòng rủi ro tín dụng
Ngày
13/8 vừa qua, Công ty Kiểm toán E&Y đã công bố báo cáo khảo sát ngành ngân
hàng tại các thị trường mới nổi, trong đó có Việt Nam. Số lượng khảo sát là 17
ngân hàng với kết quả chính yếu về nợ xấu như sau: 24% nghĩ rằng nợ xấu là vấn
đề quan trọng nhất của nền kinh tế đang đối mặt; 76% cho rằng nợ xấu là vấn đề ảnh
hưởng lớn đến ngành ngân hàng. Điều này chứng tỏ, nợ xấu thật sự không những là
nỗi ám ảnh của hệ thống ngân hàng mà còn ảnh hưởng cả sự ổn định tài chính.
Đến
nay, các chuyên gia thừa nhận, tốc độ xử lý nợ xấu không nhanh bằng nợ xấu mới
phát sinh. Trong đó, tỷ lệ nợ nhóm 5 ngày càng nhiều ở các ngân hàng. Nợ xấu
gia tăng, đồng nghĩa, ngân hàng phải trích lập thêm dự phòng rủi ro tín dụng
theo đúng quy định. Dự phòng rủi ro tín dụng được hạch toán vào chi phí hoạt động
nên sẽ làm giảm trừ lợi nhuận. So với cuối năm 2013, chỉ trong quý II/2014, chi
phí trích lập dự phòng rủi ro trên tổng chi phí đã gia tăng mạnh ở một vài ngân
hàng, như hơn 44% ở Vietcombank, 24,3% ở ACB, 17,66% ở Eximbank…Chi phí trích lập
dự phòng rủi ro trong quý III dường như sẽ cao hơn so với các quý trước, bởi :
-
Thứ nhất, bài toán xử lý nợ xấu vẫn còn
loay hoay chưa tìm ra lời giải. VAMC đã mua khá nhiều nợ xấu trên thị trường
nhưng không mua đứt bán đoạn mà thông qua phát hành trái phiếu đặc biệt. Ngân
hàng giữ trái phiếu này sẽ được tái cấp vốn tại ngân hàng nhà nước và vẫn phải
trích lập dự phòng mỗi năm 20% trong 5 năm cho đến khi nợ xấu được xử lý. Tính
đến 1-9-2014, VAMC cũng chỉ xử lý bằng cách thu hồi và phát mãi được 1.400 tỷ đồng
trong số gần 60.000 tỷ đồng nợ xấu đã mua về. Chính vì vậy, trong ngắn hạn, tốc
độ nợ xấu phát sinh và tỷ lệ trích lập dự phòng sẽ nhanh hơn và nhiều hơn. Do
đó, lợi nhuận các ngân hàng trong năm này có thể bị ảnh hưởng không ít.
-
Thứ hai, các ngân hàng phải thực hiện
phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro theo
đúng thông tư 02 và 09. Việc phân loại và mức trích lập dự phòng rủi ro trong
thông tư này khắt khe hơn rất nhiều so với các quy định trước đây. Nếu thực hiện
đầy đủ thì dự kiến chi phí dự phòng rủi ro tín dụng của các ngân hàng sẽ có xu
hướng tăng mạnh.
-
Thứ ba, thông tư 09 thay thế cho Thông tư 02 yêu cầu các ngân hàng
phải thành lập hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ bao gồm các quy trình đánh giá
khách hàng trên cơ sở cả định lượng lẫn định tính. Chất lượng các khoản nợ sẽ
được xếp vào các nhóm tương ứng không chỉ dựa trên số ngày quá hạn thanh toán
tiền gốc, tiền lãi mà còn căn cứ vào điểm số xếp hạng tín nhiệm theo những chỉ
tiêu phù hợp đặc thù của từng ngân hàng. Chính vì vậy, những khoản nợ trong hạn
khi đánh giá tín nhiệm theo các tiêu chí thực tế thu thập vẫn có thể trở thành
các khoản nợ xấu nếu có mức tín nhiệm thấp.
Hướng
đến cơ cấu thu nhập vững bền
Với
cơ cấu thu nhập của các ngân hàng thương mại Việt Nam thì rất dễ hiểu tại sao
nhiều ngân hàng phải trông ngóng tỷ lệ tăng trưởng tín dụng và tiến trình xử lý
nợ xấu. Sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn thu từ tín dụng đã tạo nguồn lợi lớn khi
kinh tế tăng trưởng nhanh, nhưng cũng là con dao hai lưỡi nếu vĩ mô bất ổn. Đã
đến lúc, các ngân hàng phải hướng đến cơ cấu thu nhập vững bền hơn. Lúc này nguồn
thu từ tín dụng chỉ nên chiếm dưới 60% và doanh thu từ dịch vụ phải chiếm tỷ trọng
ngày càng cao.
Vậy,
để hướng đến cơ cấu thu nhập vững bền và tạo nguồn lợi nhuận lớn thì các ngân
hàng thương mại Việt Nam phải: rà soát và tiết kiệm hơn nữa các chi phí hoạt động;
gia tăng hơn nữa nguồn thu từ các dịch vụ ngoại bảng; cắt giảm các khoản đầu tư
chứng khoán kinh doanh hoặc chuyển hoạt động kinh doanh này sang các công ty tài
chính trực thuộc; đẩy mạnh nguồn thu từ các hoạt động kinh doanh có lợi thế cạnh
tranh như Vietcombank với hoạt động kinh doanh ngoại tệ; gia tăng tỷ trọng
doanh thu từ dịch vụ để giảm áp lực nguồn thu lãi thuần từ tín dụng, từ đó hướng
đến cơ cấu thu nhập vững bền hơn; chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng và
phát triển hệ thống quản trị rủi ro ngân hàng.
Th.S
Châu Đình Linh
No comments:
Post a Comment