Các
nghiên cứu gần đây về tài chính – ngân hàng đều cho thấy vai trò quan trọng của
tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế, mà cụ thể hơn là tỷ lệ tăng trưởng tín
dụng của hệ thống ngân hàng mỗi năm. Tỷ lệ này ảnh hưởng trực tiếp đến các biến
số kinh tế vĩ mô, đặc biệt là GDP, lãi suất và lạm phát. Do đó, Ngân hàng nhà
nước (NHNN), thường đưa ra tỷ lệ tăng trưởng tín dụng dự kiến phù hợp với mức kỳ
vọng của các chỉ số kinh tế vĩ mô hằng năm.
Năm
2014, NHNN đã đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng là 12 – 14%, tương đương số lượng
nguồn vốn nền kinh tế phải hấp thụ gia tăng là 417.360 – 486. 920 tỷ đồng. Tuy
nhiên, theo thông cáo báo chí của NHNN thì 6 tháng đầu năm, tín dụng chỉ tăng
3.52 %, tương đương với 122.400 tỷ đồng. Và lời khẳng định của Thống đốc Nguyễn
Văn Bình tại Hội nghị sơ kết sáu tháng đầu năm ngành Ngân hàng, tăng trưởng tín
dụng toàn hệ thống cả năm sẽ đạt trên 10% . Đến đây, câu hỏi đặt ra, có nên
tăng trưởng tín dụng bằng mọi giá?
Việt
nam luôn nằm trong danh sách các nước dẫn đầu về tỷ lệ tăng trưởng GDP và là điểm
đến hấp dẫn của nhà đầu tư nước ngoài. Kết quả đạt được, tổng sản phẩm quốc nội
GDP tăng từ 40 tỷ USD năm 2003 đến 171 tỷ USD năm 2013 và nền kinh tế đạt mức độ
thịnh vượng chưa từng thấy trong 20 năm đổi mới. Tuy nhiên, sự hào nhoáng nhất
thời của GDP đã làm các chính sách bỏ qua cơ cấu GDP lẫn chất lượng GDP.
Tăng
trưởng GDP thường dựa vào đóng góp của ba nhân tố: vốn, lao động và TFP (Năng
suất các yếu tố tổng hợp – Total Factor Productivity phản ánh sự đóng góp của
các yếu tố vô hình như kiến thức – kinh nghiệm – kỹ năng lao động, chất lượng
thiết bị công nghệ, kỹ năng quản lý…[1]);
trong đó, Việt nam phụ thuộc hoàn toàn vào vốn (hơn 80%) và lao động (chủ yếu tập
trung lao động giá rẻ) để tạo ra tăng trưởng. Một điều đáng tiếc là sự làm ngơ
gia tăng yếu tố TFP – một nhân tố quyết định sự phát triển bền vững dựa vào nguồn
nhân lực chất lượng cao (duy trì ở mức 0 sau năm 2007). Chính điều này, để hoàn
thành các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, đặc biệt là tăng trưởng GDP đòi hỏi gánh nặng
của tỷ lệ tăng trưởng tín dụng. Do đó, cả hệ thống ngân hàng phải quyết tâm
hoàn thành tỷ lệ ở mức phù hợp. Nhưng để tránh sự bất ổn sau này, thì không nhất
thiết phải tăng trưởng bằng mọi giá và cần xem xét lại chất lượng tăng trưởng
tín dụng lẫn địa chỉ dòng vốn đến.
Hình 1 : GDP theo đóng góp của vốn, lao động và TFP
Nguồn
: Tổng cục thống kê và NHNN
Chỉ tiêu
|
2003
|
2004
|
2005
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
2011
|
2012
|
2013
|
2014
|
Tăng trưởng tín dụng
|
28.2
|
41.5
|
19.2
|
21.4
|
53.89
|
23.38
|
37.53
|
31.19
|
14.4
|
8.85
|
12.51
|
12-14
|
Tăng trưởng GDP
|
7.34
|
7.79
|
8.44
|
8.23
|
8.46
|
6.31
|
5.32
|
6.78
|
6.24
|
5.25
|
5.42
|
5.4
|
CPI
|
3
|
9.5
|
8.4
|
6.6
|
12.6
|
19.89
|
6.52
|
11.75
|
18.13
|
6.81
|
6.04
|
6-6.5
|
Bảng 1 : Tăng trưởng
tín dụng, GDP và CPI theo năm
Các nhân tố ảnh hưởng đến
chất lượng tăng trưởng tín dụng
Khi
tỷ lệ tăng trưởng tín dụng đạt mục tiêu thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất
và lạm phát, nhưng cũng gia tăng GDP. Lúc này, người tiêu dùng có thể vay và
chi tiêu nhiều hơn; doanh nghiệp có thể gia tăng hoạt động đầu tư mở rộng sản
xuất thông qua vay nợ. Kết quả sự gia tăng của tiêu dùng và đầu tư sẽ tạo nhiều
công ăn việc làm và gia tăng lợi tức cho nhiều chủ thể kinh tế. Hơn nữa, tăng
trưởng tín dụng sẽ làm cú hích tăng giá các công cụ tài chính trên thị trường vốn.
Nhưng không phải tăng trưởng bằng mọi giá mà cần xem xét chất lượng tăng trưởng
tín dụng. Cụ thể, chất lượng tăng trưởng tín dụng ngân hàng thường được xem xét
ở 3 nhóm nhân tố[2]
:
-
Thứ nhất, nhóm nhân tố thuộc về bản thân
hệ thống ngân hàng. Quy mô về vốn, nhân sự, mạng lưới, thương hiệu…của ngân
hàng càng lớn thì khả năng huy động vốn cũng như cho vay càng dễ dàng, Theo đó,
chiến lược kinh doanh, chính sách tín dụng và chính sách lãi suất của mỗi ngân
hàng cũng là yếu tố đo lường chất lượng tăng trưởng tín dụng hằng năm. Do đó,
muốn gia tăng số lượng và chất lượng tín dụng thì nhóm nhân tố này cần đặc biệt
quan tâm về hoàn thiện cơ chế quản lý từ NHNN.
-
Thứ hai, nhóm nhân tố thuộc các khách
hàng của ngân hàng. Đây là nhân tố khách quan, phụ thuộc vào mức thu nhập, chi
tiêu của người dân cũng như điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chất
lượng tín dụng từ nhóm nhân tố này phụ thuộc sự đánh giá tín dụng cặn kẽ từ hệ
thống ngân hàng cũng như tình trạng phát triển của nền kinh tế.
-
Thứ ba, nhóm nhân tố thuộc về môi trường
vĩ mô. Điều kiện phát triển của kinh tế và môi trường pháp lý sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động của ngân hàng thương mại. Cụ thể, khi nền kinh tế bất ổn,
thu nhập giảm sút và những quy định pháp luật chưa rõ ràng, đồng bộ thì niềm
tin của khách hàng vào sự ổn định của đồng nội tệ bị lung lay. Từ đó, nhu cầu gởi
tiền và nhu cầu vay vốn cũng sẽ ảnh hưởng theo.
Dòng
tín dụng ngân hàng đi đâu.
Thực
tế, tình trạng phát triển của nền kinh tế Việt Nam vẫn còn đang ngổn ngang và nợ
xấu từ khách hàng ngân hàng vẫn dai dẳng chưa kịp xử lý thì chất lượng tín dụng
chỉ còn trong chờ mỗi nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng. Chính vì vậy, ngân
hàng phải chọn địa chỉ có hệ số an toàn cao nhất để bơm vốn – đó không phải là
khách hàng cá nhân hay doanh nghiệp mà là Chính phủ, cụ thể là trái phiếu chính
phủ. Nếu tiếp tục tăng trưởng bằng mọi giá và không tìm kiếm những địa chỉ bơm
vốn hiệu quả khác thì nguồn vốn sẽ lại đổ dồn vào trái phiếu chính phủ, điều
này lợi bất cập hại:
-
Thứ nhất, dòng vốn không trực tiếp chảy
vào sản xuất và tiêu dùng hộ gia đình mà chỉ tập trung ở tiêu dùng của chính phủ
sẽ làm GDP trở nên kém cân đối, đồng thời năng lực cạnh tranh trong sản xuất sẽ
sụt giảm trong tương lai so với các nước.
-
Thứ hai, hiệu quả sử dụng vốn từ trái
phiếu chính phủ là điều cần giải quyết khi mà hệ số ICOR ở khu vực này luôn ở mức
2 con số. Điều này cũng tương ứng với con số 90.000 tỷ đồng trong Kho bạc Nhà
nước đang loay hoay chờ giải ngân. Nếu tình trạng trên còn kéo dài thì nhà nước
sẽ thiệt hại kép và nền kinh tế có thể rơi vào trì trệ.
-
Thứ ba, phần lớn nguồn vốn huy động của
ngân hàng là ngắn hạn (dưới 1 năm) nhưng lại đổ dồn nhiều vào trái phiếu chính
phủ với kỳ hạn trung và dài hạn. Do đó, hiện tượng mất cân đối kỳ hạn sẽ là một
rủi ro đáng kể nếu ngân hàng không có phương án ứng phó từ bây giờ.
Tăng trưởng tín dụng là mệnh lệnh bắt
buộc để kinh tế tăng trường, nhưng không nên tăng trưởng bằng mọi giá. Mà ở đó,
phải xem xét đến chất lượng tăng trưởng, cơ cấu tăng trưởng và địa chỉ dòng vốn
đến. Nếu tăng trưởng tín dụng được lan tỏa cân đối đến tiêu dùng hộ gia đình, đầu
tư tư nhân và chi tiêu chính phủ thì cơ cấu GDP sẽ trở nên vững bền hơn.
ThS. Châu Đình Linh
(giảng
viên trường đại học Ngân hàng TPHCM)
Harrah's Cherokee Casino Resort - Mapyro
ReplyDeleteFind Harrah's Cherokee 속초 출장안마 Casino Resort 통영 출장마사지 (keyword 광주광역 출장안마 harrah's cherokee casino 태백 출장안마 domain en.wikipedia.org 청주 출장안마