Đã
hơn 10 ngày, kể từ ngày 1/5, Trung quốc đặt giàn khoan HD 981 trái phép tại khu
vực đặc quyền kinh tế Việt Nam đã làm cho chính sự và dư luận trong nước đặc biệt
quan tâm. Đánh hay không đánh, chiến tranh hay hòa bình – là những chủ đề mà bạn
có thể bắt gặp ở bất cứ nơi đâu, từ quán nước vỉa hè đến nhà hàng khách sạn
sang trọng.
Mỗi
ngày trôi qua, tình hình lại càng căng thẳng, chúng ta sẽ làm gì, chắc hẳn các
vị lãnh đạo đất nước cũng đã có những đối sách giải quyết. Riêng tôi, sự việc
này làm củng cố hơn nhận thức về hai điều:
-
Một là, chiến tranh và hòa bình. Hai trạng
thái đối lập nhưng không tách rời nhau. Có chiến tranh thì mới có hòa bình, và
ngược lại, hòa bình rồi sẽ chiến tranh. Mọi thứ trên cõi đời này chỉ tương đối
và luôn vận hành theo quy luật. Chính chiến tranh – hòa bình cũng là một quy luật
mà bạn phải tuân theo. Lúc này, bạn và tôi đã sẵn sàng cho sự vận động mang
tính quy luật đó chưa?
-
Hai là, bán anh em xa, mua láng giềng gần.
Không hàng xóm láng giềng nào mà không xảy ra xung đột hoặc lời vào lời ra, thậm
chí phải dùng nắm đấm và súng ống... Do đó, ông bà có câu “bán anh em xa, mua
láng giềng gần” phải chăng ngụ ý, phàm đã làm hàng xóm láng giềng thì trước sau
cũng có chuyện nên khuyên bảo con cháu như thế. Nhưng khi bạn gặp hàng xóm “hắc
ám” thì bạn sẽ cư xử như thế nào? Tôi đã ngồi lục lại lịch sử với ông anh hàng
xóm hắc ám đấy và thấy một sự thật là máu lẫn nước mắt đã rơi từ cổ đại đến hiện
đại.
“Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cứ còn ghi…”
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cứ còn ghi…”
Dưới
đây là tổng hợp các cuộc kháng chiến giữa Việt Nam và Trung quốc từ cổ đại đến
hiện đại[1]:
THỜI HỒNG BÀNG
1. Chiến tranh Ân-Văn Lang
Cuộc chiến tranh được xem là đầu
tiên giữa hai nước diễn ra là vào thời nhà Ân của
Trung Quốc và thời Hùng Vương thứ
6 ở Việt Nam. Cuộc chiến này gắn liền vời truyền thuyết Thánh Gióng.
Cuộc chiến kết thúc với sự thất bại của quân đội nhà Ân. Tuy nhiên, có ý kiến
cho rằng quân Ân không phải là nhà Ân (Thương) mà là một bộ tộc man di ở nam
Trung Quốc.
2. Chiến tranh Tần-Âu Lạc
Sau khi tiêu diệt 6 nước Sơn Đông,
thống nhất Trung Quốc và lên ngôi hoàng đế, Tần Thủy Hoàng tiếp tục ý định mở rộng
lãnh thổ về phía nam, Thủy Hoàng sai Đồ Thư mang 50 vạn quân tiếp tục đánh
chiếm những vùng đất phía nam. Cuộc chiến kết thúc năm 208 TCN và “kéo dài 10
năm”, xác định rằng thời điểm Tần Thủy Hoàng phát binh đánh Bách Việt khoảng năm
218 - 217 TCN.
Cuộc chiến chống Tần của người Bách
Việt kéo dài trong khoảng 10 năm, trong đó người Âu Việt đụng độ quân Tần trong
khoảng 6 năm (từ năm 214 TCN). Các tộc người Đông Việt, Mân Việt, Nam Việt… đã
bị chinh phục nhưng người Âu Việt đã chiến thắng. Bước nam tiến của nhà Tần bị
chặn lại sau thiệt hại nặng trong cuộc đụng độ này cùng cái chết của tướng Đồ
Thư. Theo các sử gia Việt Nam hiện đại, gần như cùng thời điểm đó, sau cuộc
chiến chống Tần thắng lợi, thủ lĩnh người Việt là Thục Phán đã thay thế Hùng
Vương của nước Văn Lang, thống nhất Âu Việt và Lạc Việt, thành lập nước Âu Lạc
vào khoảng năm 207 TCN.
THỜI BẮC THUỘC
3. Chiến tranh Hán-Lĩnh Nam
Năm 40 công nguyên, sau cuộc nổi dậy
của Hai Bà Trưng là người Việt nổi dậy, phần
đất thuộc bộ Giao Chỉ (gồm 4 quận Hợp Phố tức Quảng Đông, Giao Chỉ, Cửu Chân,
Nhật Nam) tách ra khỏi lãnh thổ nhà Đông Hán, trở thành một vùng đất độc lập.
Trưng Trắc và Trưng Nhị lấy đất Mê Linh làm kinh đô, phong chức tước cho những
người cùng tham gia khởi nghĩa. Chính quyền của 2 bà tuy còn sơ khai nhưng cũng
đã là một nhà nước độc lập, tự chủ. Tới năm 42 công nguyên, nhà Hán - Trung
Quốc do Mã Viện cầm đầu đã đưa quân sang đánh, chính quyền của
Hai Bà Trưng bị thất bại, người Việt lại tiếp tục bị Trung Quốc đô hộ.
4. Chiến tranh Đông Ngô-Việt
Năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại
nhà Đông Ngô (Trung Quốc) tàn ác, dân gian khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh
việc khởi binh chống lại. Từ hai căn cứ núi vùng Nưa và Yên Định, hai anh em bà
dẫn quân đánh chiếm quận lỵ Tư Phố nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là căn cứ
quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân, đứng đầu là Tiết Kính
Hàn. Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng đồng
bằng con sông này. Những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền. Song
do chênh lệch về lực lượng và không có sự hỗ trợ của các phong trào đấu tranh
khác nên căn cứ Bồ Điền bị bao vây cô lập, và chỉ đứng vững được trong hơn hai
tháng. Bà Triệu chống đỡ với quân Đông Ngô được năm sáu tháng thì thua. Bà
Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng. Nước Việt lại bị nhà Đông Ngô đô hộ cho đến
265.
5. Chiến tranh Lương-Vạn Xuân
Năm 541, Lý Bí nổi dậy khởi nghĩa,
đã đánh đuổi được thứ sử Tiêu Tư nhà Lương, sau 3 lần đánh bại quân Lương những
năm kế tiếp, Lý Bí tự xưng đế tức là Lý Nam Đế, lập ra nước Vạn Xuân vào năm
544. Đến năm Năm 545, nhà Lương cử Trần Bá Tiên và Dương Phiêu sang đánh nước
Vạn Xuân, Lý Nam Đế bị thua trận, giao lại binh quyền cho Triệu Quang Phục. Sau
khi Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục đánh đuổi được quân Lương vào năm 550, bảo
vệ được nước Vạn Xuân. Ông tự xưng là Triệu Việt Vương, đến năm 571 một người
cháu của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử đã cướp ngôi Triệu Việt Vương, tiếp tục giữ
được sự độc lập cho người Việt thêm 30 năm đến khi nhà Tùy sang đánh năm 602
6. Chiến tranh Đường-Việt
Khởi nghĩa Hoan Châu do Mai Thúc
Loan lãnh đạo nổ ra vào năm Khai Nguyên thứ nhất đời vua Đường Huyền Tông ở
Trung Hoa, tức năm Quý Sửu (713). Mai Thúc Loan đã giải phóng toàn bộ đất nước
và giữ vững nền độc lập trong 10 năm (713 - 722).
Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-779),
chưa rõ đích xác vào năm nào, nhân lòng căm phẫn của người dân, lợi dụng khi
quân lính ở Tống Bình (Hà Nội) nổi loạn, Phùng Hưng đã phát động một cuộc khởi
nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ.
Cuối thế kỷ 9, chính quyền trung
ương nhà Đường suy yếu nghiêm trọng. Nạn cát cứ của quân phiệt địa phương ngày
càng ác liệt. Khởi nghĩa Hoàng Sào (874-884) đã làm triều đình nhà Đường rung
chuyển. Khúc Thừa Dụ, khi đó là Hào trưởng Chu Diên, được dân chúng ủng hộ, đã
tiến quân ra chiếm đóng phủ thành Đại La (Tống Bình cũ - Hà Nội), tự xưng là
Tiết độ sứ.
THỜI ĐỘC LẬP TỰ CHỦ (905 – 1407)
7. Chiến tranh Nam Hán-Việt
Trận Bạch Đằng năm 938 là một trận
đánh giữa quân dân Việt Nam - thời đó gọi là Tĩnh Hải quân và chưa có quốc hiệu
chính thức - do Ngô Quyền lãnh
đạo với quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Kết quả, quân dân Việt Nam giành
thắng lợi. Đây là một trận đánh quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Nó đánh dấu
cho việc chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc của
Việt Nam.
8. Chiến tranh Tống-Đại Cồ Việt, 981
Chiến tranh Tống-Việt năm 981 là một
cuộc chiến tranh giữa Đại Tống thời Tống Thái Tông và Đại Cồ Việt thời Lê Đại
Hành diễn ra từ tháng 1 đến tháng 4 năm 981 trên lãnh thổ Đại Cồ Việt. Kết quả,
quân và dân Đại Cồ Việt đã đánh bại quân đội Đại Tống. Sau cuộc chiến này, năm
986, hoàng đế Đại Tống chấp nhận nhà Tiền Lê và ban chế phong cho Lê Đại Hành.
9. Chiến tranh Tống-Đại Việt, 1075-1077
Chiến tranh Tống - Việt, 1075-1077
là tên gọi cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung
Quốc vào cuối thế kỷ 11. Giai đoạn đầu, tướng nhà Lý là Lý Thường Kiệt đã chủ
động đánh sang đất Tống trong chiến dịch 1075-1076; Giai đoạn sau, quân Lý rút
về phòng thủ chống lại cuộc nam tiến của đại quân Tống trong năm 1076-1077 và
cuối cùng đẩy lui được quân Tống ra khỏi lãnh thổ Đại Việt.
10. Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt
Chiến
tranh Nguyên Mông-Đại Việt hay Kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông (tên
gọi ở Việt Nam) của một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của quân và dân Đại
Việt đầu thời Trần dưới thời các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần
Nhân Tông trước sự tấn công của đế quốc Mông Cổ. Tuy thời gian của cuộc kháng
chiến bắt đầu từ năm 1258 đến năm 1288, nhưng thời gian chiến sự chính thức chỉ
tổng cộng bao gồm khoảng gần 9 tháng, chia làm 3 đợt. Trước, giữa và sau các
đợt chiến sự là thời gian tiến hành tích cực các hoạt động ngoại giao. Kết quả,
Đại Việt bảo vệ được nền độc lập của mình, nhưng trên danh nghĩa phải chịu làm
một xứ phụ thuộc vào đế quốc Mông Cổ. Thắng lợi quân sự của phía Đại Việt gắn
liền với tên tuổi của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Lịch sử Việt
Nam xem cuộc kháng chiến này là một trong những trang sử hào hùng nhất của
mình.
11. Chiến tranh Minh-Đại Ngu
Chiến tranh Minh - Đại Ngu, hay
thường được giới sử học Việt Nam gọi là chiến tranh xâm lược của nhà Minh 1406-1407, là cuộc chiến của nhà Hồ nước
Đại Ngu chống cuộc xâm chiếm của nhà Minh dưới
triều Minh Thành Tổ nhưng bị thất bại, Việt Nam
một lần nữa rơi vào sự cai trị của Trung Quốc.
THỜI BẮC THUỘC LẦN TIẾP THEO (1407 – 1427)
12.
Chiến
tranh Minh-Đại Việt
Sau thất bại của người Việt trước
Trung Quốc trong thời nhà Hồ, Nhiều cuộc nổi dậy chống Minh, điển hình là nhà
Hậu Trần, đã bị dẹp một cách tàn khốc. Liên tiếp 2 vua nhà Hồ, một vua nhà Hậu
Trần bị bắt về Trung Quốc, vua Trùng Quang và các tướng đều tử tiết. Trương Phụ
tàn sát những người lính theo quân khởi nghĩa và cả dân thường rất tàn bạo
(chặt đầu, đốt xác, cuốn ruột vào cây...) để khủng bố tinh thần người Việt. Mặt
khác, các tướng nhà Minh như Hoàng Phúc, Trương Phụ đã thiết lập bộ máy cai trị
và huy động được một lực lượng người Việt giúp việc khá đắc lực như Mạc Thúy,
Lương Nhữ Hốt, Trần Phong...
Khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra trong bối
cảnh rất khó khăn, Khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) là cuộc khởi nghĩa đánh đuổi
quân Minh xâm lược về nước do Lê Lợi lãnh đạo và kết thúc bằng việc giành lại
độc lập cho nước Đại Việt và sự thành lập nhà Hậu Lê.
THỜI ĐỘC LẬP (1428 – 1858)
13.
Chiến
tranh Thanh-Đại Việt
Trận Ngọc Hồi - Đống Đa (hay Chiến
thắng Kỷ Dậu) là tên gọi do các nhà sử học Việt Nam dành cho loạt trận đánh
chống ngoại xâm thắng lợi của nước Đại Việt thời Tây Sơn do vua Quang Trung
lãnh đạo vào đầu năm Kỷ Dậu 1789, đánh tan hàng vạn quân Mãn Thanh do Tôn Sĩ
Nghị chỉ huy - kéo sang do sự cầu viện của vua Chiêu Thống nhà Hậu Lê. Trận
Ngọc Hồi - Đống Đa khẳng định sự tồn tại của nước Đại Việt trước hoạ xâm lược,
chấm dứt sự tồn tại của nhà Hậu Lê. Chiến thắng này còn đánh dấu việc nhà Tây
Sơn chính thức thay nhà Hậu Lê trong việc cai quản đất Bắc Hà và trong quan hệ
với nhà Thanh.
THỜI
CẬN ĐẠI VÀ HIỆN ĐẠI
14. Chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc, 1979
Chiến tranh biên giới Việt - Trung,
1979 là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, nổ ra
vào vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi Trung Quốc đem
quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới giữa hai nước. Chiến tranh
biên giới Việt - Trung bắt nguồn từ quan hệ căng thẳng kéo dài giữa hai quốc
gia, cuộc chiến kéo dài khoảng một tháng với thiệt hại nặng nề về người và tài
sản cho cả hai phía. Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc bị Việt Nam đẩy lui,
hoàn thành rút quân vào ngày 18 tháng 3năm
1979, sau khi chiếm được các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng,
và một số thị trấn vùng biên giới. Việt Nam tuyên bố chiến thắng do đã đẩy lui
được quân nam chinh Trung Quốc.
Mục tiêu của Trung Quốc buộc Việt
Nam rút quân khỏi Campuchia không thành, nhưng cuộc chiến để lại hậu quả
lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam và quan hệ căng thẳng
giữa hai nước. Xung đột vũ trang tại biên giới còn tiếp diễn thêm 10 năm. Hơn
13 năm sau, quan hệ ngoại giao Việt-Trung chính thức được bình thường hóa.
15. Xung đột biên giới Việt-Trung,
1979-1990
Tiếp nối cuộc Chiến tranh biên giới Việt-Trung,
1979. Sau khi quân Trung Quốc rút khỏi Việt Nam tháng 3 năm 1979 sau
cuộc chiến tranh biên giới, Trung Quốc tuyên bố họ không tham vọng dù "chỉ
một tấc đất lãnh thổ Việt Nam". Trên thực tế, quân Trung Quốc chiếm đóng
khoảng 60 km² lãnh thổ có tranh chấp mà Việt Nam kiểm soát trước khi chiến
sự nổ ra. Tại một số nơi như khu vực quanh Hữu Nghị Quan thuộc Lạng Sơn,
quân Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ không có giá trị quân sự nhưng có giá
trị biểu tượng quan trọng. Tại các nơi khác, quân Trung Quốc chiếm giữ các vị
trí chiến lược quân sự làm bàn đạp để từ đó có thể tiến đánh Việt Nam.
Việc Trung Quốc chiếm đóng các lãnh
thổ biên giới làm cho Việt Nam căm giận, và giữa hai phía nổ ra một loạt trận
giao tranh nhằm giành quyền kiểm soát các khu vực đó. Xung đột biên giới giữa
Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiếp diễn cho đến năm 1988, cao điểm là các năm
1984-1985. Tới đầu những năm 1990, cùng với việc Việt Nam rút quân khỏiCampuchia và Liên Xô sụp đổ, quan hệ giữa hai
nước dần trở lại bình thường. Trung Quốc dần thực hiện việc rút quân khỏi các
vị trí đã chiếm đóng của Việt Nam trong thời gian trước.
16. Cuộc chiến mang tên gì tiếp theo?
Cuộc
chiến mang tên gì sẽ tiếp diễn? Và một điều khẳng định – trong một cuộc chiến
không có kẻ chiến thắng mà chỉ có máu và nước mắt đọng lại. Hy vọng mọi
chuyện sẽ ổn thông qua con đường ngoại giao và đàm phán…
Xin
kết bằng bài thơ Nam Quốc Sơn Hà mà danh tướng Lý Thường Kiệt từng đọc:
“Sông núi nước Nam,
vua Nam ở,
Rành rạch định phận
tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang
xâm phạm
Chúng bây sẽ bị đánh
tơi bời”
Châu Đình Linh
[1]http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_chi%E1%BA%BFn_tranh_Vi%E1%BB%87t_Nam-Trung_Qu%E1%BB%91c
No comments:
Post a Comment