Hàn Quốc từng là một quốc gia có nợ xấu lên đến 118 tỷ Won (18% dư nợ) và chiếm 27% GDP nhưng hiện nay tỷ lệ này đã được kiềm chế ở mức 1%. Liệu Việt Nam có thể học tập cách xử lý nợ xấu của Hàn Quốc?

Ông Hang Jin Yun chuyên gia phân tích tài chính cao cấp, Giám đốc khối thị trường mới nổi tại Công ty Korea Investment & Securities (Hàn Quốc) phân tích về sự giống và khác nhau trong xử lý nợ xấu của Việt Nam và Hàn Quốc.
Thưa ông Hang Jin Yun, ông có thể cho biết tỷ kệ nợ xấu của Hàn Quốc hiện nay so với thời điểm sau khủng hoảng kinh tế 1997 đã thay đổi thế nào không?
Sau khủng hoảng tiền tệ 1997, tình trạng vay nợ nhiều cộng với sự rút vốn ồ ạt của nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đẩy Hàn Quốc vào khủng hoảng tín dụng và sau đó là khủng hoảng tiền tệ.
Hàn Quốc đã phải mất tám năm từ 1997 - 2005 để giải quyết triệt để nợ xấu và quá trình này vẫn tiếp tục diễn ra âm thầm từ 2005 cho đến nay.
Nhờ những biện pháp xử lý nợ xấu đồng loạt mà tỷ lệ nợ xấu đã giảm từ 17,7% năm 1998 xuống còn 3,9% vào năm 2002 và hiện nay là khoảng 1%.
Theo ông, khác biệt cơ bản giữa cách xử lý nợ xấu của Hàn Quốc và Việt Nam là gì?
Khác biệt thứ nhất là chính phủ Hàn Quốc khi quyết định xử lý nợ xấu đã phân ra các nhóm ngành cụ thể như doanh nghiệp sản xuất, các tổ chức tín dụng, các ngân hàng tiết kiệm (tương đương với quỹ hưu trí của Việt Nam) để tiện đưa ra phương án giải quyết cho từng nhóm ngành, đặc biệt chú trọng các tổ chức tín dụng.
Trong khi đó, chính phủ Việt Nam mới chỉ tập trung vào việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, Hàn Quốc cũng thành lập công ty xử lý nợ xấu KAMCO mua lại toàn bộ nợ xấu của các tổ chức tín dụng với giá chiết khấu rất rẻ và thành lập một ngân hàng hoàn toàn mới để có thể xử lý triệt để nợ xấu trong 5-6 năm.
VAMC mua lại nợ xấu với chiết khấu khá cao nên sẽ khó bán lại. Đồng thời, VAMC vẫn để cho các ngân hàng này hoạt động và sử dụng nguồn trái phiếu đặc biệt do VAMC trả để vay lại Ngân hàng nhà nước với lãi suất rất rẻ để tiếp tục lấy tiền cho các doanh nghiệp sản xuất vay.
Nếu việc cho vay này có lãi nó sẽ giúp tăng nguồn cung tiền ra thi trường, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và giúp các ngân hàng này có thể trích lập quỹ dự phòng trong năm năm.
Như vậy, thực chất, VAMC đang “mua thời gian” để các ngân hàng tự khắc phục.
Vậy theo nhận định của ông, khả năng xử lý nợ xấu của VAMC sẽ đi đến đâu?
VAMC thành lập cũng chưa được lâu và cũng mới tiến hành mua nợ xấu từ đầu tháng 10/2013.
Khoản nợ xấu đã mua cũng chưa được đem bán đấu giá nên hiện tại khó có thể đánh giá được hiệu quả.
Tuy chưa có phương án cụ thể nhưng việc VAMC mua lại nợ xấu của các ngân hàng cũng có 2 lợi ích.
Thứ nhất, là việc xử lý không triệt để này sẽ không khiến cho các ngân hàng bị “sốc” do đó sẽ không bị ảnh hưởng mạnh.
Thứ hai là Chính phủ không phải bỏ ra quá nhiều vốn để thực hiện tái cơ cấu vì chỉ mua năm năm, sau đó lại trả lại cho các ngân hàng.
Bên cạnh đó,việc làm của VAMC cũng không phải là không có điểm yếu.
Bởi vì VAMC cần tính đến trường hợp sau năm năm mà ngân hàng nào không tự xử lý được các khoản nợ xấu của mình thì ngoài khoản nợ xấu phải nhận lại, họ còn gánh thêm những khoản nợ xấu phát sinh mới.
Như vậy, tình trạng nợ xấu của các ngân hàng thậm chí càng tồi tệ hơn.
VAMC nên lựa chọn phương án xử lý khoản nợ xấu đã mua như thế nào sẽ hiệu quả nhất?
Có các trường hợp có thể xảy ra. Thứ nhất là VAMC mua nhưng không bán được nợ xấu đó và sau năm năm, số nợ xấu đó lại trả lại cho ngân hàng.
Nếu trong năm năm đó các ngân hàng đã trích lập dự phòng đầy đủ cho các món nợ của mình thì nợ xấu sẽ được giải quyết nhưng nếu ngược lại tình hình nợ xấu của Việt Nam sẽ không hề được cải thiện.
Trường hợp thứ hai, VAMC chấp nhận chịu lỗ, bán nợ với giá rẻ thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ xem xét mua nhưng nếu bán bằng giá thì khả năng các nhà đầu tư mua là không cao.
Tuy nhiên, Việt Nam khó có thể áp dụng tái cơ cấu triệt để như Hàn Quốc vì cần rất nhiều tiền. Sau khủng hoảng tiền tệ 1997, chính phủ Hàn Quốc đã phải bỏ ra số tiền lên đến 40 – 50% GDP xử lý nợ xấu và tái cơ cấu.
Trong nhiều năm Việt Nam liên tục thâm hụt ngân sách nếu tiếp tục chi quá nhiều cho giải quyết nợ xấu thì thâm hụt ngân sách có thể lên tới trên 10%, đem lại những hậu quả khó lường.
Đối với các khoản nợ xấu có thể bán thì không nên bán với mức quá cao, ít nhất tỷ lệ chiết khấu phải 30-40% thì mới có nhà đầu tư chịu mua. Nhưng khoản lỗ mà Chính phủ phải chịu vẫn tính vào thâm hụt ngân sách.
Vì vậy, chính phủ Việt Nam nên xem xét kỹ các phương án và có thể chờ năm năm để xem hiệu quả bước đầu như thế nào.
Ngoài ra, nếu mà bán với một mức giá quá thấp thì cũng sẽ vấp phải sự phản đối của người dân trong nước. Người dân gửi tiền vào ngân hàng, họ sẽ nghĩ rằng tài sản của họ tại sao lại bán cho nước ngoài với giá rẻ mạt như thế?
Trước đây, tổng thống Hàn Quốc khi ra quyết định bán nợ xấu với giá thấp cũng từng vấp phải sự phản đối dữ dội của người dân.
Là một nhà đầu tư nước ngoài, ông có sẵn sàng mua nợ xấu của Việt Nam không?
Tôi sẽ xem xét nếu VAMC bán nợ với giá hấp dẫn. Nếu nợ đó thuộc diện khó đòi thì phải mua với cái giá gọi là “vừa bán vừa cho”.
Còn nếu khoản nợ đó vẫn rõ ràng, minh bạch, “con nợ” và “chủ nợ” thì có thể xem xét mua với giá cao hơn
No comments:
Post a Comment